Theo Sở Y tế Hải Phòng, Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật (CDC) đã có báo cáo gửi đơn vị và Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) về hoạt động của nhóm "Bông hồng đen" tại địa bàn.
Báo cáo nêu rõ ngày 18/8, CDC Hải Phòng nhận được thông tin có liên quan đến hoạt động xét nghiệm HIV tại cộng đồng của nhóm "Bông hồng đen".
Đây là nhóm do Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phát triển Cộng đồng (SCDI) quản lý. Trung tâm này do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam ra quyết định thành lập năm 2010, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ. Văn phòng giao dịch của trung tâm tại Hải Phòng được thành lập từ năm 2016 do bà Nhâm Thị Tuyết Thanh điều hành.
Hiện tại, SCDI đang triển khai Dự án “Bảo vệ tương lai - Tăng cường các can thiệp mới dựa vào cộng đồng nhằm kiểm soát lây nhiễm HIV trong nhóm thanh niên sử dụng ma tuý tại Việt Nam” theo quyết định ngày 16/12/2020 của Liên Hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam về việc phê duyệt, tiếp nhận nguồn vốn viện trợ phi chính phủ của nước ngoài.
Sau đó, trung tâm này hợp tác với 6 nhóm với tổng cộng 38 người tham gia để thực hiện dự án. Trong đó, nhóm "Bông hồng đen" gồm 5 người do bà Đinh Thị Út làm trưởng nhóm; bà Hoàng Thị Thu Hương làm phó nhóm.
"Bông hồng đen" có nhiệm vụ triển khai hoạt động dự án trong nhóm người trẻ sử dụng ma tuý ở độ tuổi từ 16-24, thời gian từ tháng 1 đến tháng 12/2023.
Toàn bộ kinh phí vận hành, sinh phẩm, vật tư triển khai hoạt động đều từ nguồn của dự án.
Từ ngày 1/1-17/8, nhóm đã xét nghiệm sàng lọc HIV cho 200 người. Ngày 18/8, thêm 4 người được tư vấn xét nghiệm sàng lọc HIV. Kết quả, tất cả các mẫu này đều không phản ứng.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, CDC Hải Phòng vẫn chưa nhận được kế hoạch, văn bản và những tài liệu liên quan đến việc triển khai dự án tại TP Hải Phòng của SCDI.
Trung tâm này cũng không cung cấp được văn bản của UBND TP Hải Phòng về việc đồng ý tiếp nhận dự án triển khai tại địa bàn thành phố; quy trình triển khai dự án, hồ sơ giấy tờ của tiếp cận viên tham gia dự án; biểu mẫu và quy trình thực hiện tư vấn xét nghiệm HIV tại cộng đồng chưa đúng theo quy định Bộ Y tế ban hành…
Với những vấn đề trên, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Hải Phòng đề nghị các cơ quan chức năng tạm dừng hoạt động của dự án này.
![]() |
Bệnh nhi mắc tim bẩm sinh với tên gọi tứ chứng Fallot, bao gồm 4 đặc điểm là thông liên thất lớn, tắc nghẽn đường ra thất phải, hẹp van xung động, phì đại thất phải và động mạch chủ đè lên. Triệu chứng gồm tím, khó thở khi ăn, tăng trưởng kém, đặc biệt cơn tím xảy ra đột ngột, có thể gây tử vong bất cứ lúc nào.
Sau 5 năm chuyển giao, thành quả mà các bác sĩ ở Việt Nam đạt được trong kỹ thuật mổ tim ít xâm lấn qua đường nách khiến vị giáo sư Nhật Bản "bất ngờ, ngưỡng mộ và tự hào": 700 ca, tỷ lệ 100% thành công, không có trẻ biến chứng nặng và tử vong.
Đến nay, bệnh nhân nhỏ tuổi nhất được phẫu thuật bằng phương pháp này chỉ mới 1,5 tháng tuổi, trẻ nhẹ cân nhất chỉ nặng 3,8 kg.
Trước năm 2018, chỉ có một đường mổ duy nhất với bệnh nhi tim bẩm sinh là đường rạch giữa ngực, cưa xương ức, để lại vết sẹo thành ngực lớn và thời gian hậu phẫu dài, trẻ phải chịu đau đớn sau mổ.
Sau khi được chuyển giao kỹ thuật phẫu thuật ít xâm lấn qua đường nách phải bởi các chuyên gia Nhật Bản năm 2018, bác sĩ Trường cho hay đường mổ mới và kỹ thuật mổ đặc biệt khiến các bác sĩ Trung tâm Tim mạch "vô cùng thích thú" và một cách nhìn hoàn toàn khác so với đường mổ giữa.
Song, nếu không thể sửa chữa tất cả tổn thương của bệnh nhi như đường mổ giữa, việc mổ qua đường nách sẽ thất bại. Vì vậy, không phải trường hợp nào các bác sĩ cũng chỉ định phẫu thuật bằng phương pháp này.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Lý Thịnh Trường, để giảm thiểu tối đa tổn thương cho bệnh nhi, các bác sĩ có những thay đổi kỹ thuật. Trước đây đường mổ ở nách dài khoảng 6cm, nay rút xuống còn khoảng 4cm. Thời gian hồi sức, thở máy cũng được rút ngắn, giúp bệnh nhi giảm đau sau mổ tốt hơn.
Đối với các bệnh nhân, đặc biệt ở độ tuổi thiếu niên, phẫu thuật ít xâm lấn qua đường dọc giữa nách bên phải mang lại tính thẩm mỹ cao, giúp các em rút ngắn thời gian hồi phục sau phẫu thuật và nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường, không có cảm giác tự ti do vết sẹo mổ ngắn và được che khuất hoàn toàn dưới nách bên phải.
Đến nay, phương pháp ít xâm lấn chủ yếu áp dụng cho nhóm bệnh tổn thương tương đối đơn giản, bác sĩ phải cân nhắc kỹ từng trường hợp. Các bệnh được chỉ định sử dụng phương pháp này hiện có: Thông liên thất, thông liên nhĩ, thông sàn nhĩ thất bán phần, bất thường trở về tĩnh mạch phổi bán phần bên phải, hẹp van động mạch phổi hoặc hẹp trên van động mạch phổi, và một số các bất thường khác như u nhầy nhĩ trái, màng ngăn nhĩ trái…